Tăng huyết áp là một trong những bệnh rất nguy hiểm đối với sức khỏe, có thể gây ra các biến chứng như đột quỵ, xơ vữa động mạch, suy tim… Người bệnh cần được kiểm soát huyết áp kịp thời và sử dụng thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Hiện nay, có 6 nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp thường dùng, bao gồm:
- Nhóm thuốc lợi tiểu: Cơ chế của nhóm thuốc này là giảm sự ứ nước trong cơ thể, từ đó giảm sức cản của mạch ngoại vi và làm huyết áp giảm xuống. Một số thuốc nhóm này gồm hydroclorothiazid, indapamid, furosemid, sprironolacton, amilorid, triamterene… Tác dụng phụ của thuốc lợi tiểu bao gồm đi tiểu thường xuyên, mất cân bằng điện giải máu (hạ kali, canxi, magie), tăng đường huyết, gout, rối loạn cương dương .
- Nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương: Cơ chế của nhóm thuốc này là hoạt hóa một số tế bào thần kinh trung ương, điều khiển làm hạ huyết áp. Nhóm này gồm có reserpin, methyldopa, clonidin… Tác dụng phụ của nhóm thuốc này bao gồm trầm cảm, hạ huyết áp tư thế, tăng transaminase máu, thiếu máu tán huyết .
- Nhóm thuốc chẹn beta: Cơ chế của nhóm thuốc này là ức chế thụ thể beta – giao cảm ở tim và mạch ngoại vi, từ đó làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Thuốc thường được dùng cho bệnh nhân cao huyết áp kèm đau thắt ngực, đau nửa đầu. Một số thuốc nhóm này gồm propanolol, nadolol, pindolol, timolol, atenolol, metoprolol, bisoprolol… Tác dụng phụ của thuốc chẹn beta bao gồm tay chân lạnh, trầm cảm, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, hen suyễn.
- Nhóm thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEI): Cơ chế của nhóm thuốc này là ức chế men chuyển angiotensin I thành angiotensin II – một chất gây co thắt mạch máu và tăng tiết aldosterone – một hormon gây ứ nước và muối trong cơ thể. Nhờ đó, nhóm thuốc này giúp giãn mạch máu và giảm sự ứ nước trong cơ thể. Một số thuốc nhóm này gồm enalapril, coversyl (perindopril), captopril… Tác dụng phụ: làm tăng kali huyết và gây ho khan.
- Nhóm thuốc đối kháng canxi: Gồm có nifedipin, nicardipin, amlodipin, felidipin, isradipin, verapamil, diltiazem… Cơ chế của thuốc là chặn dòng ion canxi không cho đi vào tế bào cơ trơn của các mạch máu gây giãn mạch và từ đó làm hạ huyết áp. Dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực, hiệu quả đối với bệnh nhân cao tuổi, không ảnh hưởng đến chuyển hóa đường, mỡ trong cơ thể.
- Nhóm thuốc đối kháng thụ thể angiotensin II. Thuốc đầu tiên được dùng là losartan, sau đó là các thuốc irbesartan, candesartan, valsartan. Nhóm thuốc mới này có tác dụng hạ huyết áp, đưa huyết áp về trị số bình thường tương đương với các thuốc nhóm đối kháng calci, chẹn beta, ức chế men chuyển. Đặc biệt, tác dụng hạ huyết áp của chúng tốt hơn nếu phối hợp với thuốc lợi tiểu thiazid. Lợi điểm của thuốc nhóm này là do không trực tiếp ức chế men chuyển nên gần như không gây ho khan như nhóm ức chế men chuyển hay không gây phù như thuốc đối kháng canxi. Tác dụng phụ có thể gặp là gây chóng mặt, hoặc rất hiếm là gây tiêu chảy. Chống chỉ định của thuốc là không dùng cho phụ nữ có thai hoặc người bị dị ứng với thuốc.
Một mục tiêu của việc điều trị cao huyết áp, trong đó có dùng thuốc, là đưa huyết áp về dưới 130/85mmHg, đối với người bệnh tuổi trung niên hoặc có bệnh đái tháo đường; hoặc đưa huyết áp về dưới 140/90mmHg ở người từ 60 tuổi trở lên.
Theo Tổ chức Y Tế thế giới (WHO), số huyết áp tốt nhất là 120/80mmHg, số 120 là số huyết áp trên và 80 là số dưới. Bị cao huyết áp khi 2 số trên dưới cao hơn 140/90 mmHg.