Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính có nghĩa là phổi bị hư hại và không bao giờ có thể hoàn toàn trở lại bình thường. Nhưng bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính có nguy hiểm không?
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) ảnh hưởng đến khoảng 329 triệu người, chiếm 5% dân số thế giới và là nguyên nhân thứ ba gây tử vong với số người chết vì căn bệnh này lên tới hơn 3 triệu mỗi năm (2016).
Ở Việt Nam, theo những kết quả trong nghiên cứu dịch tễ học tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là 4,1% ở người trên 40 tuổi. Một nghiên cứu của nhóm các bác sĩ gia đình châu Á năm 2105 nhận định Việt Nam là nước có tần suất bệnh COPD là 9,4%, có xu hướng tiếp tục tăng cao do tình trạng hút thuốc lá, thuốc lào và ô nhiễm môi trường gia tăng.
GS.TS Ngô Quý Châu, Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai cho biết, tại Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là 4,2% và tỷ lệ mắc hen phế quản là 4,1%.
Bệnh nhân mắc COPD nặng thường kèm theo các bệnh lý như suy kiệt, tăng huyết áp, đái tháo đường, suy tim… phải điều trị liên tục, tốn kém.
Đặc biệt, trong thời tiết lạnh của mùa đông miền Bắc, số bệnh nhân mắc căn bệnh này càng có xu hướng gia tăng, diễn biến nặng.
Thế nhưng việc phát hiện sớm còn hạn chế, có tới 25 – 50% bệnh nhân COPD không được chẩn đoán đúng trước khi nhập viện điều trị và còn tỉ lệ rất lớn bệnh nhân không tuân thủ liệu trình điều trị dự phòng, chỉ điều trị khi có cơn kịch phát.
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính gây nhiều biến chứng nặng nề tại phổi và ngoài phổi.
Tràn khí màng phổi (TKMP) là biến chứng thường gặp nhất và phải luôn cảnh giác ở bất cứ bệnh nhân COPD nào. Ở bệnh nhân COPD, sự tắc nghẽn đường dẫn khí kéo dài dẫn đến hiện tượng “bẫy khí” hay lượng khí hít vào phế nang không được thở ra hết nên lượng khí tích lại dần làm căng giãn các phế nang tạo ra hiện tượng khí phế thũng. Các phế nang căng giãn lâu ngày mỏng ra và dễ dàng vỡ vào khoang màng phổi gây TKMP.
Khi đó, bệnh nhân thấy đột ngột đau ngực bên tràn khí, khó thở tăng, khám phổi thấy có dấu hiệu rì rào phế nang mất, rung thanh giảm hoặc mất và gõ lồng ngực vang hơn bên không có tràn khí.
Có trường hợp tràn khí áp lực dương hay tràn khí màng phổi có van, lượng khí ra khoang màng phổi theo một chiều nên nhanh chóng tăng áp lực đẩy xẹp phổi, suy hô hấp nặng và có thể tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời.
Tràn khí dưới da cũng là một dấu hiệu đặc hiệu cho TKMP. Chẩn đoán bệnh nhân TKMP ở bệnh nhân bệnh COPD thường không có gì khó khăn khi có dấu hiệu lâm sàng rõ và cho bệnh nhân chụp thêm Xquang tim phổi. Việc điều trị TKMP ở đối tượng bệnh nhân này luôn khó khăn do phế nang đã dãn nhiều, việc hút dẫn lưu khí phải kiên nhẫn và đúng phương pháp. Nhiều trường hợp phải gây dính khoang màng phổi để điều trị.
Tăng áp lực động mạch phổi: Khi phế nang giãn nhiều sẽ gây chèn ép vào các mao mạch phổi dẫn đến tăng áp lực động mạch phổi (ĐMP). Thêm nữa, một tình trạng thiếu oxy liên tục cũng là nguyên nhân gây co thắt các tiểu động mạch và làm tăng áp lực ĐMP.
Xác định bệnh nhân có tăng áp ĐMP dựa vào khám lâm sàng thấy có tiếng tim thứ hai đánh mạnh, tách đôi nghe ở ổ van ĐMP và siêu âm doppler tim. Tăng áp ĐMP khiến cho bệnh nhân khó thở hơn và làm tiên lượng bệnh nhân COPD xấu hơn. Điều trị tăng áp lực ĐMP bao gồm cho bệnh nhân uống các thuốc chẹn canxi, xịt các thuốc giãn mạch và điều trị tốt các đợt cấp của COPD.
Suy tim phải: Khi áp lực ĐMP tăng cao cộng với một tình trạng thiếu oxy mạn tính sẽ dẫn tới suy tim phải. Suy tim phải là một biến chứng kèm theo “như hình với bóng” ở bệnh nhân COPD.
Các dấu hiệu của suy tim phải bao gồm dấu hiệu tâm thất phải đập ở vùng mũi ức, gan to, tĩnh mạch cổ nổi và phù hai chi dưới. Bệnh nhân COPD có suy tim phải sẽ được gọi là “tâm phế mạn” và việc điều trị sẽ khó khăn hơn rất nhiều.
Loạn nhịp tim, đặc biệt là rung nhĩ cũng rất hay gặp ở bệnh nhân đợt cấp COPD. Nguyên nhân chủ yếu của rung nhĩ là do thiếu oxy cơ tim, do suy tim hoặc rối loạn điện giải, là các tình trạng hay gặp ở bệnh nhân này.
Rung nhĩ làm bệnh nhân khó thở hơn trong các đợt cấp và có thể có nguy cơ tắc mạch não do huyết khối tâm nhĩ trái. Bên cạnh rung nhĩ, các loạn nhịp tim khác như cơn nhịp nhanh nhĩ đa ổ, ngoại tâm thu các loại… cũng có thể gặp ở bệnh nhân COPD.
Đa hồng cầu: là biến chứng thường có do tình trạng thiếu oxy liên tục ở bệnh nhân COPD. Lượng hồng cầu gia tăng trong trường hợp này giống như cơ chế tăng hồng cầu ở người sống tại các vùng núi cao do không khí loãng, thiếu oxy – sự gia tăng hồng cầu phản ứng. Số lượng hồng cầu tăng quá cao làm tăng nguy cơ tắc mạch và huyết khối ở bệnh nhân COPD.
Biến chứng thần kinh: Các biến chứng thần kinh hay gặp là đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, rối loạn ý thức. Các triệu chứng này là do tình trạng thiếu oxy máu và tăng CO2 mạn tính trong máu. Có nhiều trường hợp lượng CO2 tăng quá cao làm bệnh nhân hôn mê. Người bệnh COPD thường mất tập trung, mau quên, giảm hoặc mất khả năng làm việc trí óc.
Một số biến chứng khác có thể gặp là tình trạng tăng nồng độ men chuyển angiotensin trong máu, ho nhiều, suy kiệt, rối loạn nước điện giải và thăng bằng kiềm toan ở các mức độ khác nhau. Các biến chứng này luôn góp phần làm xấu thêm tình trạng bệnh lý tắc nghẽn sẵn có.
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn không chữa được, người bệnh phải sống chung với nó. Do đó, việc bệnh nhân không tuân thủ điều trị, hoặc sử dụng thuốc không đúng cách, chế độ dinh dưỡng chưa hợp lý, chưa chú ý đến phục hồi chức năng hô hấp và nhất là vẫn tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ khiến bệnh không được cải thiện…