Hơn năm mươi năm trước, chiến tranh nổ ra giữa Israel và các nước láng giềng. Chiến tranh năm 1967 chỉ kéo dài sáu ngày (từ ngày 5 đến 10/6/ 1967) nhưng hậu quả của nó kéo dài đến ngày nay.
Diễn biến cuộc chiến
Sáng ngày 05/6, chiến dịch mang tên “Cú đấm của Sion” của Israel bắt đầu. Ai Cập, Syria, Iraq và Jordany (là những nước Ả rập tham chiến) trước thời điểm xảy ra chiến tranh có tổng cộng gần 700 máy bay chiến đấu, còn Israel- gần 300. Trong 03 tiếng đồng hồ buổi sáng 5/6, các máy chiến đấu Israel liên tục công kích các sân bay của Ai Cập trên bán đảo Sinai và đồng bằng sông Nile.
2/3 các máy bay của Ai Cập bốc cháy ngay trên sân bay và không một chiếc nào có thể cất cánh. Sau ba ngày, (theo các số liệu khác nhau) ba nước A rập bị mất từ 360 đến 420 máy bay ngay trên các sân bay và trong các trận không chiến, phía Israel bị tổn thất (trong các trận không chiến và bị các phương tiện phòng không mặt đất đối phương bắn hạ) – từ 18 đến 44 máy bay. Sự khác biệt giữa con số tổn thất máy bay của hai bên rõ ràng là quá lớn.
Tuy nhiên, nếu cứ lấy số liệu tổn thất cao nhất của ba nước A rập (420 máy bay) thì đến sáng ngày thứ hai của cuộc chiến, số lượng máy bay của hai bên xung đột vẫn tương đương nhau. Tuy nhiên, dù một vài cuộc không chiến vẫn diễn ra cho đến ngày 09/6, phía Israel vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối trên không.
Có 03 nguyên nhân chính (theo A,Khramchikhin):
- các phi công Israel được đào tạo và huấn luyện tốt hơn (chưa nói tới yếu tố tinh thần),
- hệ thống chỉ huy không quân hoàn thiện hơn và
- Quân A rập bị sốc nặng sau thất bại ngày đầu tiên 5/6.
Chiếm ưu thế trên không có ý nghĩa rất quan trọng đối với chiến thắng trên mặt đất, dù các chiến dịch trên bộ đối với Quân đội Israel không hề dễ dàng. Sư đoàn bộ binh cơ giới số 6 của Ai cập trong 02 ngày đầu chiến tranh đã tiến sâu vào lãnh thổ Israel tới 10 km.
Mặc dù vậy, Quân đội Israel do làm chủ trên không, có các sỹ quan và binh sỹ thiện chiến, nắm được quyền chủ động nên đã đánh bại Quân đội các nước A rập. Ngoài ra, còn một yếu tố nữa – giới lãnh đạo Ai cập đã rơi vào tình trạng hoảng loạn.
Sáng ngày 06/6, Tổng tư lệnh Quân đội Ai cập tướng Amer ra lệnh cho Bộ đội Ai cập ở Sinai rút lui. Rút lui trong điều kiện liên tục bị người Do Thái công kích từ trên không đã nhanh chóng biến thành một cuộc tháo chạy hoảng loạn và dẫn đến thảm họa.
Các hoạt động tác chiến trên bán đảo Sinai kết thúc sáng ngày 09/6, Về phía Ai cập có từ 10.000 đến 15.000 binh sỹ thiệt mạng, 5.000 bị bắt làm tù binh, mất gần 800 xe tăng (291 T-54, 82 T-55, 151 T-34/85, 72 IS-3M, 29PT -76, 50 “Sherman”, một khối lượng lớn các phương tiện kỹ thuật bọc thép khác.
Không những thế, một số lượng lớn các xe tăng và xe vận tải bọc thép còn nguyên vẹn đã rơi vào tay Quân đội Israel.
Chiến lợi phẩm nhiều đến mức mà mặc dù không có các phụ tùng Xô Viết để thay thế, người Do Thái đã đưa chúng vào trang bị cho các đơn vị quân đội (trong đó có 81 T-54 và 49 T-55), chỉ thay động cơ và vũ khí của Phương Tây.
Một số xe đến nay vẫn còn nằm trong biên chế của Quân đội Israel. Cụ thể, Israel đã sử dụng khung gầm của T-54 và T-55 để chế tạo xe vận tải bọc thép “ Akhzarit” – được sử dụng nhiều trong cuộc chiến tranh với Li Băng năm 2006. Còn về phía mình, Israel mất trên bán đảo Sinai 120 xe tăng – ít hơn so với số xe tăng chiến lợi phẩm thu được.
Song song với các trận chiến trên bán đảo Sinai với Ai Cập là các trận chiến ác liệt giữa Israel và Jordany để giành Jerusalem và Bờ tây sông Jordan. Ngày 6/6 các đơn vị Jordan thậm chí đã bao vây một tiểu đoàn tăng Israel nhưng không thể tiêu diệt được tiểu đoàn này.
Lần này, trình độ huấn luyện tác chiến cao, việc nắm quyền chủ động và chiếm ưu thế trên không của người Israel lại phát huy tác dụng. Ngoài ra, Quân đội Jordany là một trong những quân đội nhỏ nhất trong số quân đội các nước A rập tham chiến, chính vì vậy mà gặp nhiều khó khăn nhất khi đối đầu với Quân đội Israel.
Tổn thất về tăng của hai bên gần tương đương nhau (gần 200 tăng về phía Jordany và hơn 100 tăng về phía Isarel. Các hoạt động tác chiến tại đây kết thúc ngày 7/6, Quân A rập bị đánh bật sang bên kia sông Jordan. Người Israel đã trả được món nợ năm 1948 và lấy lại vùng Latrun và Khu phố cổ tại Jerusalem.
Syria thời gian đầu chỉ đứng ngoài quan sát cuộc chiến và không có bất cứ động thái quân sự nào nào. Nhưng đến ngày 09/6, tình thế đã khác hẳn và đến lượt Syria chịu trận. Vào giữa trưa, lực lượng Israel đã bắt đầu tấn công cao nguyên Goland.
Có lẽ đây chiến dịch khó khăn nhất đối với Israel trong suốt cuộc chiến tranh sáu ngày vì địa hình cao nguyên Goland có lợi cho Syria. Thậm chí theo số liệu của Israel thì nước này đã mất ở đây số lượng xe tăng nhiều gấp đôi Syria – 160 so với 80 (trong trang bị của Quân đội Syria có cả tăng T-34/85 của Liên Xô và xe tăng StuG III của Đức).
Tuy bị thiệt hại nặng nhưng khi tấn công cao nguyên Goland thì người Israel biết chắc là họ sẽ thắng, còn người Syria khi phòng ngự tại cao nguyên này cũng đã biết chắc là mình sẽ thua. Đến 18h30 ngày 10/6, hai bên chính thức ngừng bắn.
Kết quả cuộc chiến
Tổng cộng: Phía các nước A rập mất không ít hơn 1.100 xe tăng, từ 380 đến 450 máy bay (trong đó có 60 chiếc trong các trận không chiến), khoảng 40.000 binh sỹ thiệt mạng và bị bắt làm tù binh. Thiệt hại của Israel gồm gần 400 xe tăng (“Centurion”, “Sherman” và M48), 45 máy bay (có 12 chiếc trong các trận không chiến), gần 1.000 binh sỹ thiệt mạng.
Chỉ trong vòng 6 ngày, Israel đã làm thay đổi căn bản cán cân lực lượng ở Trung Đông. Nước này đã đánh bại quân đội của 3 nước A rập có biên giới chung với Israel, trong đó đối thủ chủ yếu của Israel là Ai cập bị thiệt hại nặng nhất. Thêm một điều rất quan trọng nữa là vị thế địa –chính trị của Israel đã được cải thiện hơn bao giờ hết.
Đến sáng ngày 5/6 (trước khi xảy ra chiến tranh), về mặt lý thuyết quân đội các nước A rập có thể chia cắt Israel thành hai phần chỉ trong 01 tiếng đồng hồ (tại khu vực mà người Israel gọi là “thắt lưng” hẹp nhất tính từ biên giới với Jordan đến bờ biển Địa Trung Hải trên lãnh thổ Israel chỉ có chiều dài 15 km).
Đến chiều ngày 10/6 (tức lúc kết thúc chiến tranh), quốc gia Do Thái đã có thêm các vùng đệm vững chắc – hướng bắc có cao nguyên Goland, hướng đông- có sông Jordan, hướng Tây nam – kênh đào Xuye, cả bán đảo Sinai và sa mạc Negev. Chính quyền Israel lúc đó tin rằng có thể đảm bảo an ninh cho nước này ít nhất là trong khoảng thời gian từ 20 đến 25 năm sau đó.
Đến năm 1970, Jordan vì những xung đột với người Palestine và Syria đã chính thức từ bỏ liên minh thực tế chống Israel . Quốc gia Do thái bớt đi được một “kẻ thù”.
Cuộc chiến tranh sáu ngày thực sự là đỉnh cao nghệ thuật quân sự Quân đội phòng vệ Israel (nhận xét của A.Khramchikhin).
Thêm một ý rất quan trọng nữa rút ra từ cuộc chiến này: Quân đội Israel thực sự đã tìm ra được “điểm giao thoa vàng” giữa một bên là quan điểm coi thường sinh mạng binh lính, coi thường tổn thất và một bên là quan điểm sợ tổn thất. Chiến thuật biển người là chiến thuật coi thường sinh mạng binh sỹ.
Trong khi đó, quan điểm ngược lại là sợ tổn thất sinh mạng dù chỉ là một người lính thì sẽ làm cho quân đội đó không còn là quân đội nữa. Đối với người Israel thì sinh mạng của các binh sỹ của mình là thiêng liêng, nhưng thực hiện nhiệm vụ tác chiến – cũng thiêng liêng. Họ (người Israel) làm tất cả để hạn chế tổn thất của mình ở mức tối thiểu, nhưng nếu tổn thất là không thể tránh khỏi thì- chiến tranh là chiến tranh.
Xét từ góc độ chính trị thì cuộc chiến do Israel phát động tháng 6/1967, dĩ nhiên là một cuộc xâm lược. Nhưng cũng không thể phủ nhận một thực tế là trước khi chiến tranh bắt đầu thì lãnh đạo các nước A rập đã có các tuyên bố hiếu chiến đe dọa Israel và dĩ nhiên Tel- Aviv có quyền hiểu và giải thích đó là các động thái chuẩn bị cho chiến tranh chống Israel và nước này buộc phải ra tay trước.
Trong bối cảnh người A rập có những ưu thế quân sự và địa lý đáng kể so với Israel thì cách giải thích trên là rất lô gich. Israel đã quyết định đánh đòn phủ đầu và thừa hiểu rằng không ai lên án người chiến thắng.
Rất có thể, những lời phát biểu hùng hồn “quyết liệt” chống Israel của giới lãnh đạo các nước A rập nhiều khi chỉ để “lưu hành nội bộ”, thế nhưng đối tượng của những tuyên bố đó (tức Israel) không nhất thiết phải hiểu như vậy.
Tuy nhiên, thực tế 40 năm sau cuộc chiến đó cũng cho thấy là chiến thắng đó cũng mang lại những hệ lụy cho Israel. Những người A rập, tuy thua trận nhưng có thừa đủ lý lẽ để bào chữa cho chủ nghĩa bài Do thái của mình.
Còn Israel, dù chiếm được Bờ Tây sông Jordan và Dải Gaza nhưng cùng với đó đã “đón” luôn một cộng đồng người Palestin thù địch sống trên các khu vực đó, ngay trong lòng Israel – không những thế với tốc độ tăng dân số rất cao của cộng đồng này thì sau một thời gian không lâu nữa, dân số của họ sẽ vượt dân số người Do thái trên chính đất nước Do thái.
Kết quả là một sự cải thiện vị trí chiến lược nhất thời đã trở thành một quả bom nổ chậm ngay trong lòng Israel (nhận xét của A.Khramchikhin).
Cội nguồn hiềm khích
Vào cuối năm 1948, các nước láng giềng Ả Rập của Israel đã cố gắng tiêu diệt nhà nước non trẻ nhưng thất bại. Quân đội Ai Cập bị đánh bại, nhưng một lực lượng bị bao vây trong một mảnh đất được gọi là Fallujah đã nhất định không đầu hàng. (Fallujah là một thành phố thuộc tỉnh Al Anbar của Iraq, nằm cách Baghdad khoảng 69 km về phía tây trên Euphrates. Fallujah có từ thời Babylon và là nơi tổ chức các học viện quan trọng của người Do Thái trong nhiều thế kỷ).
Một nhóm các sĩ quan trẻ Ai Cập và Israel đã cố gắng phá vỡ sự bế tắc. Trong số đó có Yitzhak Rabin, một thần đồng quân đội Israel 26 tuổi, người đứng đầu các hoạt động ở mặt trận phía nam, và Thiếu tá Gamal Abdel Nasser 30 tuổi người Ai Cập.
Chỉ vài năm sau khi Đức quốc xã giết chết sáu triệu người Do Thái, giấc mơ thành lập một nhà nước trên quê hương Kinh thánh của họ đã trở thành sự thật.
Người Palestine gọi năm 1948 là “al-Nakba” hay “Thảm họa”. Có tới 750.000 người Palestine đã chạy trốn hoặc bị trục xuất khỏi vùng đất trở thành Israel và không bao giờ được phép quay lại.
Đối với người Ả Rập, thất bại dưới tay nhà nước Israel non trẻ là một khoảnh khắc chính trị địa chấn dẫn đến nhiều năm đầy biến động.
Bốn năm sau khi kết thúc chiến tranh, Nasser đã lãnh đạo một nhóm sĩ quan trẻ lật đổ nhà vua Ai Cập.
Đến năm 1956, Nasser là chủ tịch nước. Trong cùng năm đó, ông đã thách thức Anh, Pháp và Israel trong cuộc khủng hoảng Suez, và trở thành anh hùng và lãnh đạo của thế giới Ả Rập.
Ở Israel, thần đồng Rabin tiếp tục sự nghiệp quân sự của mình. Đến năm 1967, ông là tham mưu trưởng, sĩ quan cao cấp nhất.
Người Ả Rập không thể vượt qua nỗi đau thất bại; Người Israel không bao giờ quên rằng hàng xóm của họ đã cố gắng tiêu diệt họ. Cả hai bên đều biết rằng một cuộc chiến khác sẽ đến, sớm hay muộn.
Những hàng xóm tồi
Israel và các nước láng giềng Ả Rập có rất nhiều lý do cho sự thù hận hoặc nghi ngờ lẫn nhau. Nhưng Chiến tranh Lạnh trong những năm 1950 và 1960 đã như thêm dầu vào lửa.
Liên Xô đã củng cố cho Ai Cập một lực lượng không quân hiện đại. Israel có quan hệ nồng ấm với Hoa Kỳ, nhưng họ chưa phải là nước nhận viện trợ quân sự lớn nhất của Mỹ; vào những năm 1960, Israel cũng đã mua máy bay từ Pháp và xe tăng từ Anh.
Sau năm 1948, Israel đã làm việc không ngừng nghỉ để tận dụng tốt nhất vị trí chiến lược của mình. Họ cũng đón hơn một triệu người nhập cư – nghĩa vụ quân sự là lý do quan trọng trong việc nhận những người mới đến Israel.
Israel đã xây dựng một quân đội nhanh chóng, linh hoạt và sẵn sàng hy sinh. Và đến năm 1967, quốc gia này đã gần đạt được mục tiêu sở hữu vũ khí hạt nhân của riêng mình.
Những người Israel mới sinh ra ở bản địa, được gọi là “sabras” – từ tiếng Do Thái có nghĩa là quả lê gai – đã quyết tâm không lặp lại những gì họ tin là những sai lầm của người Do Thái trong cộng đồng người Do Thái. Họ sẽ luôn chiến đấu trở lại, và đôi khi chiến đấu là trên hết.
Ông Rabin tự tin rằng các lực lượng vũ trang của Israel đang ở trong tình trạng tốt nhất. Nhiệm vụ của họ là chiến thắng mọi cuộc chiến, với lý do Israel không thể có một thất bại.
Các lực lượng Ai Cập và những người đồng minh Syria, được huấn luyện ít hơn, khoe khoang nhiều hơn và quên rằng chiến thắng chính trị xuất hiện sau cuộc khủng hoảng Suez năm 1956 được báo trước bởi một thất bại quân sự.
Nasser tập trung vào việc xây dựng một phong trào dân tộc chủ nghĩa Ả Rập mà những người ủng hộ ông hoàn toàn mong đợi sẽ tái tạo sự vĩ đại của Ả Rập, và trả thù Israel. Ông đã cử đồng minh thân cận nhất của mình, Nguyên soái Abdul Hakim Amer, làm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang.
Ai Cập là một quốc gia cổ đại không có cảm giác bất an vốn nằm ở phía dưới sự vênh vang của Israel. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Amer, mà ông ta đã làm rất tốt, là đảm bảo rằng quân đội luôn trung thành bằng cách dập tắt âm mưu và giữ cho quân đoàn sĩ quan hạnh phúc. Nghệ thuật quân sự ít được ưu tiên hơn nhiều.
Đến năm 1967, Ai Cập bị sa lầy trong một cuộc chiến ở Yemen đã trở thành Việt Nam của chính họ. Họ đã không chiến đấu tốt. Nhưng Nasser không thể thay thế Nguyên soái Amer bằng một người lính tốt hơn.
Quân đội Syria cũng bị chính trị hóa không kém, và giống như Ai Cập là khách hàng của Liên Xô. Một loạt các tướng bị xoay vần trong vòng xoáy quyền lực bởi một loạt các cuộc đảo chính.
Người Ả Rập đã nói rất nhiều về sự thống nhất, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc, nhưng trong thực tế, họ đã bị chia rẽ sâu sắc. Các nhà lãnh đạo Syria và Ai Cập băn khoăn về những âm mưu được cho là do các quốc vương ở Jordan và Ả Rập Xê Út xúi giục. Các vị vua lo lắng rằng những người theo chủ nghĩa dân túy quân sự đã lãnh đạo Syria và Ai Cập sẽ kích động cách mạng.
Nhà cai trị của Jordan, Vua Hussein, là đồng minh thân cận của Anh và Mỹ. Jordan là quốc gia Ả Rập duy nhất nổi lên từ năm 1948 với tư cách là người chiến thắng.
Ông nội của Hussein, Quốc vương Abdullah, có liên hệ bí mật với Cơ quan Do Thái, cơ quan chính đại diện cho người Do Thái ở Vương quốc Palestine thuộc Anh; họ đã thảo luận về việc phân chia vùng đất giữa họ theo kế hoạch của Anh rời đi vào năm 1948.
Năm 1951, một người theo chủ nghĩa dân tộc Palestine đã ám sát Quốc vương Abdullah tại Nhà thờ Hồi giáo al-Aqsa ở Jerusalem. Hoàng tử Hussein mười lăm tuổi nhìn thấy ông mình chết, và ngày hôm sau lần đầu tiên hoàng tử mang một khẩu súng trong đời. Một năm sau ông là vua.
Sau chiến tranh năm 1948, Jordan và Israel đã đến gần với nhau hơn, nhưng không đủ gần để làm hòa. Cuộc nói chuyện bí mật tiếp tục về triều đại của Hussein. Ông ta nhận thức được những điểm yếu của Jordan – đó chủ yếu là sa mạc và có một lượng lớn người tị nạn Palestine.
Hội chứng Syria
Chiến tranh năm 1967 là kết quả của nhiều năm căng thẳng gia tăng và những cuộc giao tranh biên giới tàn khốc giữa người Ả Rập và người Israel.
Biên giới giữa Ai Cập và Israel tương đối yên tĩnh. Điểm chớp nhoáng lớn nhất là biên giới phía bắc của Israel với Syria, nơi họ đã chiến đấu trên lãnh thổ tranh chấp và những nỗ lực của Syria nhằm chuyển hướng sông Jordan ra khỏi mạng lưới sông nước quốc gia của Israel.
Người Syria che chở cho quân du kích Palestine, những người đang tiến hành các cuộc tấn công vào Israel.
Các cường quốc phương Tây không nghi ngờ phe nào ở Trung Đông mạnh hơn vào đêm trước chiến tranh năm 1967. Tham mưu trưởng liên quân của quân đội Hoa Kỳ phán xét rằng “Israel sẽ không thể bị đối phó bởi bất kỳ liên minh quân sự nào của các quốc gia Ả Rập ít nhất trong năm năm tới”.
Lực lượng Israel
- Tháng 5 năm 1967
- 264.000 quân đội
- 800 xe tăng
- 300 máy bay chiến đấu
Trong một báo cáo về quân đội Israel vào tháng 1/1967, tùy viên quốc phòng Anh ở Tel Aviv đã đánh giá rằng “về chỉ huy, huấn luyện, trang thiết bị và nghĩa vụ, quân đội Israel đã chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh hơn bao giờ hết. Người lính Israel có tinh thần chiến đấu mạnh mẽ và sẵn sàng tham chiến để bảo vệ đất nước”.
Các cuộc chiến tranh biên giới gây căng thẳng. Du kích Palestine đã phá vỡ hàng rào biên giới. Israel lên án họ là những kẻ khủng bố; Họ tin rằng để răn đe và trừng phạt, họ phải đánh trả mạnh mẽ.
Một cuộc đột kích lớn của Israel vào Bờ Tây do Jordan chiếm đóng nhắm vào làng Samua vào tháng 11/ 1966, sau một cuộc tấn công mỏ đất ở Israel.
Cuộc đột kích gây náo động giữa những người Palestine ở Bờ Tây. Hussein kinh hoàng. Ông ta nói với Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) rằng trong ba năm, ông đã nói chuyện bí mật với Israel; địa chỉ liên lạc ở Israel của ông đã đảm bảo sẽ không có sự trả thù nào vào buổi sáng của cuộc đột kích.
Người Mỹ đã thông cảm. Họ ủng hộ một nghị quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc lên án cuộc đột kích Samua.
Hussein áp đặt thiết quân luật ở Bờ Tây và hơn bao giờ hết nghĩ rằng ngai vàng của ông ta đang gặp nguy hiểm, và ông ta có thể bị lật đổ bởi những người Palestine giận dữ. Ông sợ một cuộc đảo chính của các sĩ quan ủng hộ Nasser cực đoan trong quân đội mà Israel có thể dùng làm cái cớ để nuốt chửng Bờ Tây và Đông Jerusalem.
Nhà vua không muốn chung số phận với vị vua Hashemite khác ở Trung Đông, là anh em họ và người bạn của ông, vua Faisal của Iraq. Ông ta đã bị bắn ngay trong sân cung điện của mình trong một cuộc đảo chính quân sự vào năm 1958.
Tổng lực lượng Ả Rập
- Ai Cập, Syria và Jordan, tháng 5/1967
- 340.000 quân đội
- 1.800 xe tăng
- Máy bay chiến đấu 660
Cuộc chiến tranh tiếp tục với những rắc rối leo thang ở biên giới Israel-Syria. Không giống như Hussein, người mà người Mỹ tin rằng đang làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn sự xâm nhập của người Palestine, Syria đã tích cực khuyến khích điều đó; Israel đang đẩy mạnh yêu sách của mình đối với lãnh thổ tranh chấp ở khu vực biên giới bằng cách canh tác trên các cánh đồng ở khu vực phi quân sự bằng máy kéo bọc thép.
Chiến tranh đã mở rộng với một trận chiến pháo và không quân quy mô đầy đủ giữa Israel và Syria vào ngày 7/4/1967. Israel đánh đuổi người Syria.
Sáng hôm sau, những người Palestine trẻ tuổi ở Jerusalem, theo các nhà ngoại giao Anh, thể hiện “sự kinh ngạc sững sờ trước năng lực của Israel và sự bất lực của người Ả Rập khi đối mặt với họ” và họ hỏi “Người Ai Cập ở đâu?” Áp lực đang gia tăng đối với Nasser tăng cường hành động cho các cuộc đàm phán.
Israel đắm mình trong tâm trạng ăn mừng. Nhưng một số chính khách và binh sĩ cao tuổi đã báo động. Trong hành lang ở quốc hội Israel (Knesset), cựu tổng tham mưu quân đội Moshe Dayan tình cờ gặp Tướng Ezer Weizmann, cựu lãnh đạo của không quân và giờ là số hai của Rabin. “Ông có đang bị mất trí không?” Dayan nói. “Ông đang đưa đất nước đến chiến tranh!”
Syria, và quân du kích Palestine mà Syria tài trợ, đã cố gắng hơn nữa để khiêu khích người Israel, những người bị buộc vươn lên để bảo vệ mình.
Họ nhìn sang Syria và Ai Cập, cũng như Anh và Mỹ, rằng Israel đang lên kế hoạch cho một bước đi lớn hơn.
Một báo cáo của hãng tin đã phóng đại, trích dẫn “một nguồn tin cao cấp của Israel” nói rằng Israel “sẽ có hành động quân sự hạn chế được thiết kế để lật đổ chế độ quân đội Damascus nếu những kẻ khủng bố Syria tiếp tục phá hoại các cuộc tấn công vào Israel”.
Nguồn tin là Chuẩn tướng Aharon Yariv, người đứng đầu tình báo quân sự. Ông đề cập đến việc lật đổ chế độ chỉ là cực đoan nhất của một loạt các khả năng. Nhưng báo cáo đã được thực hiện nghiêm túc ở Syria – và cả trên báo chí Israel.
Sau đó, một sự can thiệp của Liên Xô đã thay đổi mọi thứ. Vào ngày 13/5/1967, Moscow đã đưa ra một cảnh báo cho Cairo rằng Israel đang tập trung quân đội ở biên giới với Syria và sẽ tấn công trong vòng một tuần.
Tại sao chính xác Liên Xô khai hỏa khởi đầu cho chiến tranh đã được tranh luận kể từ đó. Hai nhà sử học người Israel, Isabella Ginor và Gideon Remez, cho rằng Liên Xô đã cố tình xúi giục cuộc khủng hoảng; họ nói rằng họ muốn chặn kế hoạch vũ khí hạt nhân của Israel; và rằng Liên Xô đã sẵn sàng để đưa lực lượng của mình vào cuộc chiến.
Vào thời điểm đó, một quan chức Liên Xô “trung cấp” đã nói với CIA rằng Liên Xô đang khuấy động người Ả Rập để cố gây rắc rối cho Mỹ. Với những vấn đề lớn ở Việt Nam, một cuộc chiến khác ở Trung Đông sẽ là một vấn đề đau đầu thậm chí còn tồi tệ hơn với Mỹ.
Năm 1967, cả Israel và các nước láng giềng Ả Rập đều không cần khuyến khích nhiều. Họ lao thẳng vào cuộc khủng hoảng mà họ đã mong đợi trong nhiều năm.
Nasser
24 giờ sau lời cảnh báo của Liên Xô, chỉ huy tối cao của Ai Cập, Nguyên soái Amer, đã đưa quân đội cảnh giác hoàn toàn cho chiến tranh.
Trung tướng Anwar al-Qadi, chỉ huy trưởng các hoạt động, nói với Amer rằng hơn một nửa quân đội, bao gồm một số quân đội giỏi nhất của họ, đã bị sa lầy ở Yemen; họ không có điều kiện để chiến đấu với Israel.
Amer trấn an ông rằng chiến đấu không nằm trong kế hoạch; đó chỉ là một “cuộc biểu tình” để đối phó với các mối đe dọa của Israel đối với Syria.
Hai ngày sau Ai Cập tự đào sâu hơn vào khủng hoảng. Họ trục xuất những người gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đã tuần tra biên giới với Israel từ năm 1956 và chuyển quân vào sa mạc Sinai.
Quân đội Israel, vẫn bị ám ảnh bởi Syria, ban đầu kiên nhẫn hơn nhiều với Ai Cập.
Shlomo Gazit, người đứng đầu phân tích tình báo quân sự, nói với các nhà ngoại giao Mỹ rằng Israel đã bị bất ngờ bởi sự hiếu chiến của Ai Cập, nhưng đó là “một cuộc trường chinh công phu”, sẽ chỉ nghiêm trọng nếu Ai Cập phong tỏa cảng Eilat trên Biển Đỏ bằng cách đóng cửa Eo biển Tiran.
Tâm trạng này bị quấy rầy bởi đài phát thanh của Nasser, Sawt al-Arab, Tiếng nói của người Ả Rập. Phát sóng từ Cairo đến phần còn lại của Trung Đông, đó là một công cụ quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nasser. Trong suốt cuộc khủng hoảng, phát thanh viên trưởng của đài, Ahmed Said, đã đọc ra một loạt các mối đe dọa đẫm máu đối với Israel.
Người Israel đã không đếm xỉa đến hành động tùy tiện của Nasser khi ông ta đuổi những người gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc và gửi thêm quân vào Sinai.
Vào ngày 22/5, ông ta đã cấm vận chuyển của Israel từ Eo biển Tiran, lối vào Vịnh Aqaba, áp dụng lại việc phong tỏa cảng Eilat đã được dỡ bỏ vào năm 1956.
Tại một căn cứ không quân ở sa mạc Sinai, Nasser tuyên bố: “Nếu Israel muốn đe dọa chiến tranh, chúng tôi nói với họ rằng ‘bạn được chào đón’”. Một bức ảnh cho thấy Nasser, trông như đang gây tranh cãi hơn bao giờ hết, được bao quanh bởi những tờ quảng cáo những phi công trẻ hạnh phúc. Những nụ cười lóe lên trên nền đen trắng.
Hình ảnh mà Nasser mong muốn được bơm khắp thế giới – lãnh đạo người Ả Rập thách thức nhà nước Do Thái, được bao quanh bởi các biểu tượng của một lực lượng chiến đấu hiện đại – phi công máy bay phản lực – sẵn sàng hành động. Nasser có vẻ phấn khích, gần giống như một đứa trẻ say sưa bởi sự vĩ đại của ranh giới cậu ta vừa đi qua.
Người Mỹ đã trả lời 42 phút sau thông báo từ Cairo, cho thấy triển vọng chuyến thăm của Phó Tổng thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey nếu cuộc khủng hoảng được đẩy lùi. Tổng thống Lyndon Johnson đã tức giận.
Tổng thư ký LHQ U Thant đang ở trên không, bay tới Cairo trong một nhiệm vụ hòa bình khi Nasser thực hiện mối đe dọa mới. Nasser lặp lại lời hứa mà ông đã thực hiện với người Mỹ và Liên Xô, rằng Ai Cập sẽ không nổ phát súng đầu tiên.
Nhưng U Thant kết luận một cách u ám rằng trừ khi có thể tìm thấy một cách dỡ bỏ việc phong tỏa Eilat, chiến tranh là điều chắc chắn.
Áp lực tấn công
Một ngày sau khi Nasser đóng cửa Eo biển, thủ tướng Israel, Levi Eshkol, và nội các đã ra lệnh tổng động viên. Trong 48 giờ, 250.000 người có thể được đưa vào chiến trường. Sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc, tất cả đàn ông Israel đã được phân bổ cho các đơn vị dự bị.
Trong một vài ngày, hầu hết đàn ông Israel dưới 50 tuổi đều mặc đồng phục quân đội.
Áp lực đè lên Tướng Rabin. Chống lại tất cả các bằng chứng quân sự, ông ta đã tự thuyết phục mình rằng mình đang dẫn dắt Israel đến thảm họa. Rabin hút gói thuốc lá và cuối cùng bị suy sụp thần kinh.
Ông ngủ gần 24 giờ, tự phục hồi và trở lại làm việc.
Ngoại giao quốc tế đã cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng trước khi nó rơi vào chiến tranh toàn diện. Ngoại trưởng Israel, Abba Eban, đã bay tới Washington cho một cuộc họp khẩn cấp với Tổng thống Johnson.
Năm 1956, khi Israel tấn công Ai Cập như một phần của thỏa thuận bí mật với Anh và Pháp, người Mỹ đã gán cho Israel là một kẻ xâm lược, và buộc họ phải rút khỏi vùng đất đã chinh phục. Lần này Eban muốn sự đồng ý của Johnson cho cuộc chiến của Israel.
Tổng thống Mỹ cảnh báo Israel không được bắn phát súng đầu tiên. Ông ta bảo Eban đừng lo lắng về một cuộc tấn công của Ai Cập. Nó đã không xảy ra và nếu nó đến “bạn sẽ đánh bại chúng”.