Else Lasker-Schüler là một nhà thơ và viết kịch người Đức gốc Do Thái nổi tiếng với lối sống phóng túng ở Berlin. Bà là một trong số ít phụ nữ liên kết với phong trào Biểu hiện. Lasker-Schüler chạy trốn khỏi Đức Quốc xã và sống hết phần đời còn lại ở Jerusalem.
Trường phái biểu hiện (Expressionism) là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính – xúc cảm của chủ thể (thường là cảm xúc con người hoặc một nhóm người) hoặc xúc cảm của chính người họa sĩ. Những cảm xúc này thường được gây ra bởi một sự kiện đặc biệt nào đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của nhiều người hoặc sự giao lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như cổ điển và hiện đại).
Vào ngày này năm 1937, một tờ báo Thụy Sĩ đã xuất bản bài thơ nổi tiếng của Else Lasker-Schüler, My Blue Piano – Phím dương cầm buồn của tôi.
Else Lasker-Schüler sinh ngày 11 tháng 2, 1869, Elberfeld, Wuppertal, Đức. Bà là con út trong một gia đình trung lưu với 6 người con. Mẹ là một nhân vật trung tâm trong thơ của bà, và nhân vật chính trong vở kịch Die Wupper được lấy cảm hứng từ người cha, Aaron Schüler, một nhân viên ngân hàng Do Thái.
Năm 1894, Else kết hôn với bác sĩ và kỳ thủ nghiệp dư Jonathan Berthold Lasker (anh trai của Emanuel Lasker, một nhà vô địch cờ vua thế giới) và cùng anh chuyển đến Berlin. Vào ngày 24 tháng 8 năm 1899, cô sinh con trai Paul và những bài thơ đầu tiên của cô đã được xuất bản. Cô đã xuất bản tập thơ đầy đủ đầu tiên của mình, Styx, ba năm sau, vào năm 1902. Vào ngày 11 tháng 4 năm 1903, cô và Berthold Lasker ly dị và vào ngày 30 tháng 11, cô kết hôn với họa sĩ Georg Lewin. Bút danh của anh, Herwarth Walden, là do cô đặt cho.
Tác phẩm văn xuôi đầu tiên của Lasker-Schüler được xuất bản năm 1906, sau cái chết của Hille, một trong những người bạn thân nhất của cô. Năm 1907, cô xuất bản tuyển tập văn xuôi Die Nächte der Tino von Bagdad, tiếp theo là vở kịch Die Wupper năm 1909, mà mãi sau này mới được công diễn. Tập thơ Meine Wunder, xuất bản năm 1911, đã đưa Lasker-Schüler trở thành đại diện nữ hàng đầu của chủ nghĩa biểu hiện Đức.
Sau khi ly thân Herwarth Walden vào năm 1910 và ly dị người chồng thứ hai này vào năm 1912, cô không một xu dính túi và phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính của bạn bè, đặc biệt là Karl Kraus- một nhà văn, nhà báo người Áo, từng được 3 lần đề cử giải Nobel. Năm đó, cô gặp Gottfried Benn. Hai người đã ngay lập tức lao vào một mối quan hệ mãnh liệt, và rất nhiều bài thơ tình cô viết dành riêng cho anh ra đời khi đó.
Mặc dù đã giành được giải thưởng văn học cao nhất của Đức vào thời điểm đó Kleist (Klaist) năm 1932, với tư cách là người Do Thái, bà đã bị Đức quốc xã quấy rối và đe dọa. Bà di cư đến Zürich nhưng ở đó, cô cũng không thể làm việc. Bà chuyển tới Palestine vào năm 1934 và cuối cùng định cư tại Jerusalem vào năm 1937. Năm 1938, bà bị tước quyền công dân Đức và Thế chiến II bùng nổ đã ngăn cản bất kỳ sự trở lại nào ở châu Âu.
Theo dịch giả tiếng Do Thái đầu tiên của bà, Yehuda Amihai, bà đã sống một cuộc sống nghèo khổ và những đứa trẻ trong khu phố chế giễu bà vì cách ăn mặc và hành vi lập dị.
Một số nhà văn hàng đầu của Do Thái và các nhà thơ đầy triển vọng đã tham dự các chương trình văn học của cô, nhưng cuối cùng Lasker-Schüler đã bị cấm không được đọc và diễn thuyết vì chúng được tổ chức bằng tiếng Đức. Cô cầu xin người đứng đầu hội đường Đức ở Jerusalem cho phép cô sử dụng Gotteshaus (nhà của Chúa) một lần nữa.
Trong những năm cuối đời, Lasker-Schüler đã làm việc cho vở kịch IchundIch của cô, vẫn còn chưa hoàn thành. Tuy nhiên, năm 1943, bà đã hoàn thành tập thơ Mein Blaues Klavier (My Blue Piano), được in giới hạn gồm 330 bản.
Chia tay văn chương là nỗ lực cuối cùng của bà để vượt qua nỗi cô đơn lưu vong. Bà có xu hướng tiêu bất cứ khoản tiền nào bà có cùng một lúc, điều đó khiến bà đi nhiều ngày mà không có thức ăn hoặc chỗ ở. May mắn là có một số bạn thơ, văn đã đến giúp đỡ bà. Năm 1944, sức khỏe của Lasker-Schüler xấu đi. Bà bị đau tim vào ngày 16 tháng 1 và chết ở Jerusalem vào ngày 22 tháng 1 năm 1945. Bà được chôn cất trên Mount of Olives.
Bài thơ Mein blaues Klavier (Dương cầm buồn của tôi)
Tôi có cây đàn dương cầm xanh ở nhà
Nhưng không biết chơi một nốt nhạc nào.
Nó nằm trong bóng tối cánh cửa tầng hầm,
Kể từ khi thế giới trở thành chốn bạo tàn.
Bốn bàn tay những vì sao từng chơi đàn –
Và nàng trăng trong thuyền ca hát.
Nhưng giờ đây chỉ còn lũ chuột ồn ào nhảy nhót.
Bàn phím đã vỡ thành từng mảnh.
Tôi khóc cho những xác chết màu xanh.
Hỡi thiên thần, hãy mở cửa cho tôi
Tôi chỉ ăn bánh mì cay đắng –
Dù biết rằng đó là điều cấm đoán
Khi tôi vẫn còn sống, bên cánh cửa thiên đường.