Quyền im lặng là gì? Quyền im lặng là quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền chủ động về việc khai báo. Những gì bị can, bị cáo thấy bất lợi cho mình, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Thuật ngữ “Quyền im lặng” bắt nguồn từ Mỹ, với nguyên tắc “Không người nào bị bắt buộc phải làm chứng chống lại mình”. Theo đó, người bị bắt giữ, trước khi bị thẩm vấn, biết rõ họ có quyền giữ im lặng; bất cứ điều gì người ấy khai báo sẽ được dùng xem là chứng cứ để chống lại họ ở Tòa án. Người bị buộc tội chỉ có thể khai báo khi có mặt luật sư. Quyền có được bào chữa và quyền im lặng là hai trong số các quyền cơ bản được luật pháp nước Mỹ quy định.
Ở Việt Nam, “Quyền im lặng” không được quy định cụ thể trong luật; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không nêu khái niệm về “Quyền im lặng”, nhưng đã cụ thể hóa một số nguyên tắc cơ bản về quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013 như: Nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13); “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 15); “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16); “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26).
Điều 59 đến Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định quyền của người bị buộc tội (gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Quyền này được thể hiện xuyên suốt từ khi bị bắt, bị khởi tố cho đến xét xử.
Tuy nhiên, đây có phải chính là nội hàm, tinh thần cốt lõi của “Quyền im lặng” được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 hay không? Trên thực tế, “Quyền im lặng” được hiểu và áp dụng khác nhau ở các chủ thể (người bị tạm giữ, người bị bắt, bị can, bị cáo, Luật sư, Điều tra viên, Kiểm sát viên…) mang tính đối lập nhau.