Chiến tranh tiền tệ đã được nhắc đến khi Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ và Mỹ tuyên bố Trung Quốc là quốc gia thao túng tiền tệ. Vậy chiến tranh tiền tệ là gì?
Theo Wikipedia, chiến tranh tiền tệ (currency war), là một cuộc xung đột kinh tế, trong đó các nền kinh tế tìm cách giảm giá tiền tệ của mình và như vậy làm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế, làm thiệt thòi các nền kinh tế khác.
Khi đồng tiền của một nước mất giá thì hàng hóa sản xuất trong nước khi bán ra ngoài sẽ rẻ hơn. Nhờ vậy sự xuất cảng hàng hóa nước đó sẽ gia tăng, họ có thể sản xuất nhiều hơn, do đó sẽ giảm số người thất nghiệp.
Đặc điểm của một cuộc chiến tranh tiền tệ là những biện pháp trả đũa của các nền kinh tế liên hệ, nói chung là sẽ dẫn tới sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu. Theo nhà kinh tế người Hoa kỳ, Joseph Stiglitz, nó dẫn tới nguy cơ, là cuối cùng các nền kinh tế liên hệ sẽ hoạt động kém hơn trước.
Chiến tranh tiền tệ diễn ra như thế nào?
Giá trị đồng tiền của quốc gia này so với tiền tệ của quốc gia khác được quyết định qua tỉ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái (còn được gọi là tỷ giá trao đổi ngoại tệ, tỷ giá Forex, tỷ giá FX hoặc Agio) giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ được trao đổi cho một đồng tiền khác. Nó cũng được coi là giá cả đồng tiền của một quốc gia được biểu hiện bởi một tiền tệ khác.[1] Ví dụ, một tỷ giá hối đoái liên ngân hàng của yên Nhật (JPY, ¥) với đô la Hoa Kỳ (US$) là 91 có nghĩa là 91 Yên sẽ được trao đổi cho 1 USD hoặc 1 USD sẽ đổi được 91 Yên. Gọi là giá cả vì Tỷ giá hối đoái được xác định trong thị trường ngoại hối,[2] rộng mở cho một loạt loại người mua và người bán khác nhau nơi việc trao đổi tiền tệ là liên tục: 24 giờ một ngày, ngoại trừ những ngày cuối tuần, tức là giao dịch từ 20:15 GMT Chủ nhật cho đến 22:00 GMT thứ Sáu.
Đa số các nước thường neo tỉ giá đồng nội tệ với USD vì đây là đồng tiền dự trữ toàn cầu, phương tiện thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, phần lớn các nước hiện nay đang áp dụng chính sách tỉ giá linh hoạt.
Một quốc gia muốn khơi mào chiến tranh tiền tệ thường chủ động hạ thấp tỉ giá. Để làm được điều này, chính phủ phải tăng cung tiền để cung vượt cầu. Khi bơm tiền ra quá nhiều thì giá trị đồng tiền lập tức bị suy yếu, giảm xuống.
Ngoài chính sách tiền tệ nói trên, chính phủ một quốc gia cũng có thể dùng chính sách tài khóa mở rộng để tác động lên giá trị đồng tiền, như tăng chi tiêu công hay cắt giảm thuế khóa chẳng hạn.
Tuy nhiên, hầu hết những quyết sách này thường phục vụ các mục tiêu chính trị khác ngoài việc gây chiến tranh tiền tệ.
Đã có những cuộc chiến tiền tệ nào?
Ngoài cuộc chiến tranh tiền tệ nhiều người đang lo lắng sẽ bùng nổ giữa Mỹ và Trung hiện tại, thế giới từng chứng kiến nhiều cuộc tương tự.
Điển hình nhất phải kể đến Cuộc chiến tranh tiền tệ thứ nhất, kéo dài từ 1921 đến 1936. Cuộc chiến này bắt đầu với siêu lạm phát Weimar (Đức) với việc đồng tiền mất giá liên tục.
Vào năm 1921, Đức đã buộc phải hủy đồng tiền của mình. Năm 1925, Pháp, Bỉ cùng một số nước khác cũng nối gót Đức.
Cuộc chiến tranh tiền tệ thứ hai nổ ra sau đó vào giai đoạn 1967-1987. Trong giai đoạn này, kinh tế Mỹ liên tiếp trải qua 3 thời kì khủng hoảng vào năm 1974, 1979 và 1980.
Thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ vào năm 1974, kéo theo tỉ lệ thất nghiệp tăng vọt, lạm phát vượt tầm kiểm soát vào những năm 1977-1981. Lúc này giá trị đồng USD chỉ còn 1 nửa.
Cả hai cuộc này đều cho thấy một bài học duy nhất: chiến tranh tiền tệ thường không đem lại kết quả mong muốn như là tăng xuất khẩu và việc làm.
Ngược lại, chiến tiền tệ mang lại sự giảm phát hoặc lạm phát trầm trọng, suy thoái, khủng hoảng hoặc thậm chí là một cơn ác mộng kinh tế.